Chu kỳ phát triển sản phẩm ô tô và nhu cầu cân bằng với môi trường quy định

Chu kỳ phát triển sản phẩm ô tô và nhu cầu cân bằng với môi trường quy định

Chia sẻ kiến thức 13/03/2022

Tỷ suất sinh lợi cạnh tranh trong một ngành đang chuyển đổi – ngành sản xuất sản phẩm ô tô

Nỗ lực phát triển và sản xuất một phương tiện động cơ khá tốn kém với không có khả năng hoàn vốn chắc chắn. OEM thường biện minh cho các trường hợp kinh doanh nền tảng và hệ thống truyền lực trong khoảng thời gian nhiều năm để đáp ứng các ngưỡng tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) hoặc mức hoàn vốn trên vốn đầu tư (ROIC). 

 

Các quyết định đầu tư rất phức tạp và cần cân nhắc nhiều yếu tố đầu vào. Tuy nhiên, các dự án được kỳ vọng sẽ đáp ứng mức sinh lợi cạnh tranh. Nếu không, các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm các cơ hội đầu tư khác. Tiền vốn có lưu chuyển, nếu ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm ô tô không mang lại lợi nhuận tương xứng, tiền vốn sẽ chảy sang các lựa chọn khác. Giống như tất cả các công ty, các nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm ô tô bị hạn chế về nguồn lực (vốn và nhân lực).. Các nguồn lực được phân bổ theo nhiều nhu cầu, chẳng hạn như chương trình xe phương tiện so với công suất nhà máy lắp ráp bổ sung để tối đa hóa lợi nhuận cho tổng công ty. Việc rút ngắn vòng đời của nền tảng và hệ thống truyền động gần đây và sự ra đời của các công nghệ có chi phí cao hơn — một phần là do phạm vi quy định và tính nghiêm ngặt ngày càng tăng nhanh có thể gây khó khăn trong việc thu hồi vốn cạnh tranh linh hoạt này. Hơn nữa, khi sở thích của người tiêu dùng trở nên phân đoạn hơn và khối lượng trên mỗi bảng tên và nhãn hiệu bị giảm xuống, các OEM thậm chí sẽ gặp nhiều thách thức hơn trong việc cung cấp những chương trình đáp ứng khối lượng yêu cầu để phân bổ chi phí đầu tư công nghệ ngày càng gia tăng nhằm đáp ứng các yêu cầu về khí thải, tiết kiệm nhiên liệu và an toàn. Khi sản lượng giảm và chi phí công nghệ tăng, tỷ suất lợi nhuận sẽ giảm do có ít xe hơn để khấu hao chi phí đầu tư công nghệ. Kết quả như vậy sẽ khiến dòng vốn chảy ra khỏi ngành tại thời điểm cần các khoản đầu tư đáng kể đó để tiếp tục đổi mới.

Thay đổi vòng đời nền tảng phương tiện

Bắt đầu từ những năm 1980, các nhà sản xuất chuyển sang quy trình sản xuất dựa trên nền tảng toàn cầu. Kể từ thời điểm đó, nhiều áp lực như cạnh tranh toàn cầu gia tăng, thay đổi quy định và sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ đã góp phần rút ngắn vòng đời của nền tảng phương tiện. Đối với xe hạng nhẹ, những nền tảng được giới thiệu trong những năm 1980 kéo dài 8.6 năm trước khi giới thiệu thế hệ nền tảng mới hoặc bị đào thải. Việc chuyển hướng sang xe tải hạng nhẹ, có chu kỳ nền tảng trung bình dài hơn, tạm thời làm tăng tuổi thọ của nền tảng tổng thể; tuy nhiên, vẫn có những sự sụt giảm, các nền tảng được đưa vào sản xuất trong những năm 1990 và 2000 tồn tại trung bình 7.6 năm. Trong thập kỷ hiện tại, thị trường đã có sự chuyển dịch trở lại, nhiều xe du lịch và một số xe SUV đã được thay thế bằng xe CUV. Việc quay trở lại các sản phẩm ô tô cùng với nhu cầu triển khai nhanh chóng các công nghệ mới và cạnh tranh làm mới các phương tiện khi có cạnh tranh mới xuất hiện trên thị trường đang dẫn đến sự sụt giảm đáng kể về tuổi thọ nền tảng ô tô và xe tải, xuống mức trung bình tổng thể là 6.7 năm (chu kỳ phát triển nhanh hơn 22% so với xe hạng nhẹ trong những năm 1980).

Theo Merrill Lynch (US Automotive Product Pipeline, 5/2017) từ năm 2018 đến năm 2021, ngành công nghiệp Hoa Kỳ sẽ giới thiệu các loại xe mới mỗi năm, tương đương với 21% tổng sản lượng của ngành, so với tỷ lệ “doanh thu” hàng năm là 16 % từ năm 1998 đến năm 2017. Như vậy, điều này sẽ làm giảm tuổi thọ sản phẩm trung bình của một chiếc xe được bán trên thị trường từ 3 năm xuống 2.7 năm trong khoảng 1998 đến 2017. Về cơ bản, ngành công nghiệp dự kiến ​​sẽ thu hồi khoản đầu tư của mình trong thời gian ít hơn 10% (có thể với số lượng đơn vị ít hơn trong thị trường có tỷ lệ phân hóa cao).

Việc phát triển nền tảng phương tiện khá tốn kém, đòi hỏi phải đạt được ngưỡng doanh số tối thiểu trước khi hoàn lại chi phí kỹ thuật và thiết bị. Đây là động lực chính để giảm thiểu số lượng nền tảng trong danh mục của OEM và nhấn mạnh các nền tảng toàn cầu có thể sản xuất số lượng đơn vị nhiều nhất ngoài các nền tảng và tập hợp các thành phần chung. Việc thắt chặt hơn nữa các chu kỳ phát triển sẽ làm giảm số lượng đơn vị từ một nền tảng và đặt ra các thách thức cho ngành. Việc đẩy mạnh nhiều hoạt động phát triển sản phẩm hơn trong quá trình so với quy trình được thiết kế dẫn đến các khó khăn do không có đủ nguồn lực như cơ sở thử nghiệm và nhân tài kỹ thuật.

Biểu đồ 1: Tuổi thọ trung bình của nền tảng theo thập kỷ giới thiệu và loại phương tiện

Hệ thống truyền lực

Trong lịch sử, các OEM đã xây dựng các trường hợp kinh doanh hệ thống truyền lực với khoảng thời gian ít nhất là 10 năm, phân bố hai hoặc nhiều chương trình phương tiện. Thời gian này được thúc đẩy bởi nhu cầu giới thiệu công nghệ mới, nhưng bị hạn chế bởi mức vốn đầu tư lớn vào thiết kế, kỹ thuật, thử nghiệm và xác nhận các chương trình động cơ và truyền động cũng như vốn đầu tư cần thiết cho dây chuyền gia công và lắp ráp các bộ phận và cụm hệ thống truyền động.

Còn các chương trình dành cho phương tiện sẽ tính theo chi phí của các chương trình hệ thống truyền lực này khi chúng được phân bổ trên tổng khối lượng đơn vị được tích hợp vào các trường hợp kinh doanh nền tảng xe cộ. OEM đã thiết kế một cách hợp lý các họ động cơ và hộp số để sử dụng trên nhiều nền tảng và nhãn hiệu xe, nhằm phân bổ chi phí hệ thống truyền lực và rủi ro thị trường trên nhiều đơn vị, phân khúc thị trường và kiểu dáng xe nhất có thể. Các OEM có nhiều tùy chọn hệ thống truyền lực trên mỗi nền tảng hoặc bảng tên làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của các loại xe này hàng tháng, hàng quý và hàng năm thông qua việc thay đổi giá nhiên liệu, những màn giới thiệu xe mới của đối thủ cạnh tranh, quy định pháp lý, khả năng chi trả cho vay tiêu dùng và các biến động thị trường khác.

Một trong những rủi ro lớn nhất mà OEM phải đối mặt đối với bất kỳ khoản đầu tư nào, đặc biệt là đối với đầu tư vào hệ thống truyền lực vì nó quá lớn và chuyên biệt, đó là việc đầu tư bị mắc kẹt. Có nghĩa là, nếu một nhãn hiệu cụ thể hoặc nền tảng xe bị lỗi trên thị trường, hoặc cần được thay thế trước vòng đời dự kiến ​​của nó, thì bất kỳ động cơ hoặc chương trình truyền động và đầu tư nhà máy nào gắn liền với nền tảng đó đều có nguy cơ bị các chương trình xe khác thâu tóm hoặc bị “mắc kẹt” và thua lỗ.

Do nhu cầu công nghệ thúc đẩy nhanh hơn nên quá trình phát triển sản phẩm được rút ngắn, dẫn đến chi phí phát triển cao hơn và tăng nguồn vốn bị hạn chế. Điều này càng trở nên trầm trọng hơn khi các OEM đồng thời thỏa mãn các lực lượng thị trường với tần suất giới thiệu xe cao hơn, các quy định ngày càng gia tăng buộc phải thay đổi công nghệ hệ thống truyền động nhanh chóng. Điều này đặc biệt đúng khi ngày càng có nhiều màn giới thiệu và làm mới sản phẩm trên thị trường xe tải nhẹ, như vậy có thể rút ngắn vòng đời sản phẩm thành phần riêng lẻ và họ hệ thống truyền lực cũng như khối lượng đơn vị có sẵn để phân bổ kỹ thuật, thiết kế và dụng cụ cùng với chi phí đầu tư nhà máy sản xuất theo cách hiệu quả về chi phí trên mỗi đơn vị. Nghiên cứu CAR chỉ ra rằng OEM và các nhà cung cấp có thể sẽ cần phải tăng ước tính chi phí sản phẩm từ 10 đến 100 USD để thu hồi khối lượng bị mất có thể xảy ra dựa trên những thay đổi công nghệ thường xuyên diễn ra. Kết quả là điều đó có thể buộc chi phí tiêu dùng cao hơn vì OEM và nhà cung cấp cần phải lập kế hoạch cho thời gian hoàn vốn của hệ thống truyền lực sao cho phù hợp với tuổi thọ nền tảng xe cộ trong thời gian ngắn từ 5 đến 10 năm — hoặc giảm lợi nhuận.

Hình 1 một mô tả cách điệu việc triển khai công nghệ thường xuyên hơn. Trong ví dụ này, việc rút ngắn vòng đời sản phẩm từ 3 năm xuống còn 1.5 năm là do nhu cầu đáp ứng quy định về tiết kiệm nhiên liệu ngày càng nghiêm ngặt. Đường màu dương nhạt thể hiện mức tăng lịch sử hàng năm 2-2.5% trong nền kinh tế nhiên liệu. Đường màu xanh đậm hơn thể hiện sự thay đổi sang tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn (4.5%), đồng thời rút ngắn tuổi thọ hữu ích của các công nghệ tiết kiệm nhiên liệu.

Như minh họa, các công ty sẽ cần giới thiệu nhiều công nghệ hơn với tốc độ nhanh hơn. Số lượng và tần suất của các bước công nghệ gia tăng đáng kể. Điều này có nhiều tác động, bao gồm việc giảm thời gian thu hồi vốn đầu tư, tăng vốn bị mắc kẹt, thời gian xác nhận công nghệ giảm và nhu cầu nguồn lực kỹ thuật gia tăng.

Hình 1: Hình minh họa sự thay đổi các tiêu chuẩn tiết kiệm nhiên liệu và chu kỳ tăng tốc 1.5 năm (đường màu đậm hơn) để phù hợp với các công nghệ tiết kiệm nhiên liệu mới.

Mặc dù sự “đè nén thời gian” này bị thúc đẩy bởi các lực lượng cạnh tranh (do người tiêu dùng thích công nghệ mới, giá năng lượng hoặc sở thích của người tiêu dùng thay đổi), nó cũng nhanh chóng được tạo ra bởi quy định về khí thải, hiệu suất nhiên liệu và các quy định an toàn nghiêm ngặt hơn. Cũng có khả năng là do cơ hội có được giá cao hơn từ công nghệ có xuất phát từ nhu cầu của người tiêu dùng, phản ứng với những thay đổi cạnh tranh sẽ ít bị tổn thất về tổng thể (vốn bị thiếu cộng với chi phí phát triển sản phẩm mới) hơn là phản ứng với sự thay đổi theo quy định. Những thay đổi theo quy định như vậy có thể đem lại lợi ích xã hội rộng rãi và quan trọng, nhưng người tiêu dùng ít nhận thức được giá trị một cách trực tiếp, do đó động lực để người tiêu dùng trả nhiều hơn cho công nghệ và cơ hội bù đắp thiệt hại ít hơn.

Điều này cho thấy sự cần thiết của tính minh bạch và nhạy cảm với thời gian khi có những thay đổi công nghệ lớn. Khi tỷ lệ giới thiệu công nghệ mới tăng lên cùng với chu kỳ phát triển sản phẩm ngắn hơn, độ nhạy đối với thời gian lại càng trở nên quan trọng. Các quy định cần linh hoạt để giúp tương tác với việc phát triển công nghệ, xác thực và sản xuất một cách hiệu quả. Điều quan trọng là, trong thời điểm thay đổi công nghệ không chắc chắn này, ngành công nghiệp cần duy trì nhịp phát triển sản phẩm hiệu quả tương đương với công nghệ mới, nhưng không gây tổn hại quá mức đến tình hình tài chính để phân bổ chi phí cho nền tảng xe cộ hiệu quả nhất có thể, giá tiêu dùng vẫn trong tầm kiểm soát và tạo điều kiện cho xu hướng giảm tuổi thọ trung bình của nền tảng xe cộ hiện nay.

Ngã rẽ của ngành: lực lượng cạnh tranh, rủi ro ngày càng tăng trong thời gian ngắn hơn

Ngành công nghiệp ô tô đang ở ngã rẽ khi nó đang cố gắng cải thiện sức hấp dẫn đầu tư của mình để thúc đẩy nhu cầu đầu tư ngày càng tăng về nhân lực, tài chính và vật chất, nhằm đem lại trình độ công nghệ mới chưa từng có cho thị trường; đồng thời, các lực lượng cạnh tranh và các yêu cầu pháp lý thách thức cơ sở của hiệp ước cạnh tranh chính: quy mô kinh tế.

Rõ ràng là khi chu kỳ sản phẩm tạo áp lực với nền tảng xe và hệ thống truyền động, rủi ro đối với OEM lớn hơn bao giờ hết. Trong khi các quy định đáp ứng các mục tiêu tiết kiệm nhiên liệu và khí nhà kính đến năm 2025 tăng lên, các nhà sản xuất ô tô phải đối mặt với áp lực là có ít thời gian hơn để tiến hành thay đổi sản phẩm, ít cơ hội học hỏi công nghệ và ít thời gian hơn để phân bổ chi phí. Hơn nữa, việc thúc đẩy hoạt động phát triển sản phẩm nhanh hơn và với khối lượng lớn hơn gây căng thẳng cho các hệ thống và nguồn lực, đặc biệt là chuyên môn kỹ thuật, đồng thời gia thêm chi phí mà các cơ quan quản lý không lường trước được hoặc không tính toán đầy đủ.

 Các phân tích và truyền thông bổ sung của ngành và cho ngành, cộng đồng đầu tư và các nhà hoạch định chính sách công, những rủi ro và chi phí này có thể giảm thiểu và tính toán một cách hợp lý. Điều này bao gồm việc đánh giá các phương pháp hay nhất về phát triển sản phẩm để giảm lượng thời gian và nỗ lực thương mại hóa công nghệ mới; tinh chỉnh các tính toán ROI đầu tư trong tương lai, chi phí và khối lượng; và tích hợp vốn đầu vào toàn diện hơn vào phân tích chi phí/lợi ích của chính sách công.

 

Nguyễn Hải Nam

Dịch từ bài: Automotive Product Development Cycles and the Need for Balance with the Regulatory Environment

Xem thêm: Khoá học Automotive – cam kết đầu ra với mức lương 9 – 12 triệu đồng.

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN HỌC LẬP TRÌNH TẠI FUNiX

Bình luận (
0
)

Bài liên quan

  • Tầng 0, tòa nhà FPT, 17 Duy Tân, phường Cầu Giấy, Hà Nội
  • info@funix.edu.vn
  • 0782313602 (Zalo, Viber)        

Cơ quan chủ quản: Công ty Cổ phần Giáo dục Trực tuyến FUNiX
MST: 0108171240 do Sở kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 27 tháng 02 năm 2018
Địa chỉ:
Văn phòng Hà Nội: Tầng 4, Tòa nhà 25T2, Đường Nguyễn Thị Thập, phường Yên Hòa, Hà Nội.
Văn phòng TP.HCM: Lầu 8, Tòa nhà Giày Việt Plaza 180-182 Lý Chính Thắng, phường Nhiêu Lộc, TP. Hồ Chí Minh.
Hotline: 078 231 3602 – Email: info@funix.edu.vn

yêu cầu gọi lại