Giấc mơ giáo dục

Giáo dục tử tế là giấc mơ muôn đời, của mọi gia đình, quốc gia, nhân loại.   Chúng ta chắt bóp, cho con học thêm, luyện tiếng Anh, hoạt động xã hội, rồi chạy vạy trường điểm… để mong con được đi du học ở các nước tiên tiến, nhất là Mỹ. Nếu ở vùng sâu vùng xa thì cũng cố cho lên được Saigon, Hanoi. Cùng lắm thì mới chịu học trường tỉnh hoặc ở nhà làm việc. Rất tốn kém và đầy cạm bẫy.  

 

Chúng ta sẵn sàng chịu mọi gian khổ, để con cháu ta được mở mặt. Chúng ta không tin giáo dục Việt Nam có thể làm được những điều phi thường.  

 

Chúng ta nghĩ làm những điều “impossible – phi thường” phải là những điều gì cao siêu, đòi hỏi phải nỗ lực gì ghê gớm lắm. Nhưng thật ra rất nhiều điều “phi thường” tồn tại ngay bên cạnh ta, chỉ cần ngoảnh đầu nhìn sang hướng khác. Hệt như ta đang đi trên đường lạnh lẽo ẩm ướt, chợt nhìn sang bên cạnh, một cây đào nở hoa đỏ thắm, và hiểu rằng mùa xuân đang đến. Những điều tôi trình bày sau đây về giáo dục đại học là “phi thường” theo nghĩa như vậy.

Năm 1969, một dự án nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Mỹ ra đời, xây dựng hệ thống mạng ARPANET liên kết 4 địa điểm:  Viện nghiên cứu Stanford, Đại học California, Los Angeles, Đại học Utah và Đại học California, Santa Barbara. Có lẽ chính các nhà khoa học máy tính cũng không tưởng tượng được những ảnh hưởng rộng lớn của dự án này trong tương lai. Họ đã tạo ra tiền thân của internet – một mạng lớn nhất trên thế giới có khả năng kết nối tất cả các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu, giáo dục, văn hoá, xã hội…  

 

Sự phát triển của internet đã làm thay đổi rất nhiều khía cạnh trong cuộc sống của con người. Một trong số đó là giáo dục.  

 

Hãy hình dung về một nền giáo dục chất lượng trước thời đại của internet: những trường đại học danh giá, với những giáo sư đẳng cấp mà khó khăn lắm sinh viên mới có cơ hội tiếp cận. Hay những hệ thống thư viện uy tín, nơi sinh viên xếp hàng để tìm mượn những cuốn sách, tài liệu tham khảo và bách khoa thư dày cộp và đắt đỏ – những pho kiến thức chuẩn mực được các nhà xuất bản phát hành.

Năm 2001, Jimmy Wales – một giảng viên tại ĐH Alabama (Mỹ) nảy ra ý tưởng thành lập một Bách khoa tri thức mở trên internet. Khác với cách xây dựng từ điển bách khoa thư truyền thống – với một hội đồng giáo sư chủ biên và thẩm định tri thức, được in ấn bởi các nhà xuất bản uy tín, Wales muốn thành lập một bách khoa thư trên mạng theo concept “wiki” – một dạng web động mà bất cứ người dùng nào cũng có thể cùng tham gia chỉnh sửa nội dung mọi lúc. Wikipedia ra đời.  

 

Nói về dự án này từ những ngày đầu, Jimmy Wales cho biết: “Hãy mường tượng đến một thế giới mà tại đó mọi cá nhân đều có thể tự do chia sẻ khối kiến thức chung.” Khi vừa ra đời, Wikipedia vấp phải sự nghi ngờ từ giới chuyên môn vì sự khác lạ trong cách xây dựng và thẩm định thông tin và tri thức. Tuy vậy, cộng đồng internet đã khẳng định sư thành công của nó: đến nay, Wikipedia là một trong năm trang web được truy cập nhiều nhất thế giới, là nguồn tri thức lớn, có độ chính xác khá cao với hơn 10.000 người tham gia biên tập, chỉnh sửa và cung cấp các tri thức. Nói không quá, có lẽ đến 90% nhân loại đang dựa vào Wikipedia như một nguồn tri thức chính thức. Hoàn toàn miễn phí và cập nhật liên tục.

Những công cụ như Wiki hay Google giúp cung cấp những kiến thức phổ thông tức thời, nhưng để đáp ứng nhu cầu học tập của rất nhiều người trên thế giới, cần có những nguồn cung cấp kiến thức trực tuyến bài bản và dài hơi hơn. E-learning đã xuất hiện từ rất sớm, tuy nhiên, nó chưa giải quyết được bài toán học tập cho số đông. Các trường đại học tử tế thì ngày càng đắt đỏ và khó vào.  

 

Các MOOCs – Massive Open Online Courses – khóa học trực tuyến đại chúng mở đầu tiên xuất hiện từ phong trào phát triển tài nguyên giáo dục mở. Thuật ngữ MOOC được đặt ra vào năm 2008 bởi Dave Cormier – 1 giáo sư từ University of Prince Edward Island (Canada). Ý tưởng của MOOC là tạo ra nền tảng để các giáo sư tự thiết kế ra các khóa học và học sinh tự học, với các diễn đàn và sự trợ giúp của của các trợ giảng.   MOOC khác biệt với các Online Course trước đó vì khả năng Massive Open – cho phép lớp học trực tuyến mở rộng cho số đông, không giới hạn người tham dự. Bỏ qua vai trò của các trường Đại học, kết nối thẳng giáo sư và sinh viên. Chất lượng khóa học sẽ được khẳng định qua số lượng sinh viên theo học các khóa đó.  Đến năm 2010 đã có những bài giảng đạt mốc 1 triệu người học.  

 

Khi vừa đưa ra, hệ thống MOOC cũng gây lúng túng và nghi ngờ từ phía các trường đại học uy tín. Tuy nhiên, trước thực tế trào lưu học MOOC ngày càng phát triển mạnh mẽ, chính các trường học đã hợp tác để tạo ra các nền tảng cung cấp MOOC chính thức.   Năm 2012 được gọi là “năm của MOOC”: Tại bờ Tây là Coursera – do hai giáo sư Stanford thành lập. Tại bờ Đông là edX – do MIT và Harvard hợp tác. Một số nền tảng khác xuất phát từ các công ty như Udemy, Udacity cũng được ra đời vào năm 2012. Ngày nay có đến hàng chục ngàn các khóa MOOC với đủ các chủ đề trên mạng để bạn có thể theo học.

Một ví dụ về sự thành công của MOOC là khóa học “Justice” (Công lý) của GS Michael Sandel –  một giáo sư cực kỳ nổi tiếng trong ngành Triết học chính trị của ĐH Harvard. Khóa học của GS Sandel khi giảng tại Harvard có thể cho phép vài trăm sinh viên tham dự. Khi đưa Justice lên các nền tảng MOOC – khoảng 4 triệu sinh viên trên thế giới đã tiếp cận môn học này. Hiện nay, nó nổi tiếng tới mức ĐH Harvard đã có một trang web riêng cho khóa học (justiceharvard.org), bên cạnh khóa Justice trên nền tảng edX.  

 

Sự thành công của 2 câu chuyện trên đã tạo ra một cách tiếp cận hoàn toàn khác về tư duy học tập trong thời đại số: bỏ qua các nguyên tắc truyền thống trong cung cấp giáo dục, kết nối trực tiếp nguồn tri thức tới người có nhu cầu học hỏi.   Ngày 1/12/2015, giáo sư Robert Muller của trường Đại học UC Berkeley (Mỹ) công bố bài viết với tuyên bố: Internet đã phát triển đủ để thành lập ra những trường đại học với chất lượng của Mỹ, với giá cả của các nước thứ 3.   Ông viết: “We need to create a dramatically new approach to higher education, but not too different.  My concept takes advantage of special teachers I call great lecturers, and the international organization that the internet makes possible…It will make university education affordable not only in the developed world, but also in the developing world. It will make superb higher education accessible not only to those few who can afford to devote full time to it, but to those who can only take one course at a time.”  

 

(Tạm dịch: Chúng ta cần tạo ra một cách tiếp cận mới cho giáo dục đại học. Concept của tôi khai thác các giảng viên hàng đầu trên một tổ chức giáo dục quốc tế được tạo ra nhờ internet. Nó sẽ giúp nền giáo dục đại học chất lượng cao không chỉ có ở các nước phát triển, mà ở cả các nước đang phát triển. Nó sẽ làm cho nền giáo dục đỉnh cao không chỉ dành cho những người dành toàn thời gian học đại học, mà còn dành cho những người chỉ có thể theo học một khóa đơn lẻ tại một thời điểm nhất định.)   Mặc dù dự án của ông bị trường từ chối, ông đã miêu tả chi tiết 15 nguyên tắc hoạt động của trường đại học này, ví dụ như local mentoring, no entrance exam, open courses, no course will have a pre-requisite, dubbed language, tough exam …. và bày tỏ mong muốn “có ai đó sẽ giúp tôi hiện thực hóa ý tưởng này”

Một cách tình cờ, những gì GS Robert Muller đưa ra trong bài báo của mình đã được thực hiện tại Việt Nam vào cùng một thời điểm bài báo công bố.  

 

Cuối những năm 90s, khi internet chính thức vào Việt Nam, thuật ngữ eLearning được bắt đầu sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, việc đưa eLearning vào thực tế bị hạn chế do thiếu nội dung và chuẩn công nghệ. Một số hoạt động về eLearning tại Việt Nam có thể kể đến là:  

 

Năm 2008, TOPICA thành lập, bắt đầu cung cấp những khóa đào tạo trực tuyến lấy bằng đầu tiên, bằng cách cổ điển: quay video và tạo lớp học ảo. Bằng cách hợp tác với các trường Đại học lớn như Đại học Mở, Đại học Kinh Tế, Đại học Ngoại Thương, TOPICA đã có những bước tiến mạnh mẽ.  

 

Năm 2011, dự án ASEAN Cyber Uni khởi động với sự hỗ trợ của Hàn Quốc và các trường mạnh của Việt Nam như Bách Khoa, Công Nghệ. Nhưng dự án này cho đến nay vẫn nằm trong phòng thí nghiệm vì thiếu mô hình sư phạm và sự chủ động từ các trường thành viên.  

 

Đầu năm 2014, dưới sự ảnh hưởng của làn sóng giáo dục MOOC, FPT thành lập dự án Cyber University.   Tuy nhiên nhóm dự án thiếu sự chỉ đạo cụ thể về hướng đi. Tháng 4/2015, Anh Nguyễn Thành Nam tiếp quản dự án Cyber university của Đại học FPT với một nhóm cán bộ hoàn toàn chưa có kinh nghiệm. Và đương nhiên vấp phải sự hoài nghi lớn từ phía các nhà quản lý của FPT.  

 

Nhưng không thể không làm. Vì ngành CNTT đang đòi hỏi những nguồn lực chất lượng cao với quy mô lớn. Mô hình giáo dục đại học truyền thống phụ thuộc quá nhiều vào giáo viên và cơ sở vật chất không thể đáp ứng được. Kỳ vọng về Cyber University của FPT là giải quyết được bài toán: tìm ra phương  pháp đào tạo được nguồn lực CNTT đáp ứng được yêu cầu công việc và trên quy mô lớn.  

 

Từ kinh nghiệm khi làm việc trực tiếp tại FPT Software trong nhiều năm, anh Nguyễn Thành Nam đã tự đúc rút ra một bài học về phương pháp đào tạo hiệu quả: phát huy năng lực tự học của người học  với sự trợ giúp của các mentors (khách hàng) từ các dự án thực tế. Đây là một mô hình học tập tiên tiến, giúp Fsoft phát triển từ hơn chục người ban đầu đến hàng chục ngàn kỹ sư như hiện nay.

Anh Nam và nhóm dự án đã đưa ra 10 nguyên tắc hoạt động của dự án trường trực tuyến của FPT (FUNiX):

 

1. Tiết kiệm. Einstein đã nói: trong tất cả những cái cần tiết kiệm, quan trọng nhất là tiết kiệm thời gian. Khẩu hiệu của trường: tốt nghiệp nhanh, đi kiếm tiền (tức là mang kiến thức vào đời sống). 

2. Đỉnh cao. FUNiX chỉ dùng bài giảng của những giáo sư hàng đầu thế giới, đã được đưa lên mạng dưới dạng MOOC. Tài liệu tham khảo cũng là các tài liệu online.

 

3. Tiếng Anh. Bài giảng để nguyên ngữ bằng tiếng Anh, được hỗ trợ phụ đề và thuyết minh. Sinh viên được khuyến khích tua đi tua lại để cảm nhận được tiếng Anh

 

4. Chứng chỉ. Đơn vị kiến thức nhỏ nhất có thể áp dụng để kiếm sống là Chứng chỉ – Certificate. Bằng đại học FUNiX bao gồm 8 chứng chỉ, xác nhận tám nhóm tri thức/kỹ năng cần thiết cho người học. Được các công ty dẫn đầu trong ngành công nhận.

 

5. Tự nguyện. Học theo đăng ký. Học viên chỉ phải thể hiện ham muốn và cam kết học tập. Không có yêu cầu đầu vào bắt buộc cho mỗi chứng chỉ. Học viên có thể bắt đầu bằng bất cứ chứng chỉ nào. Học viên thể hiện ham muốn bằng cách liên tục đặt câu hỏi trong quá trình học.

 

6. Tức thì. Học viên sẽ được các Mentors (là những chuyên gia trong ngành công nghiệp) giải đáp các thắc mắc và hỗ trợ làm bài tập ngay tức thì trong trạng thái real-time. 

 

7. Thái độ. Các học viên sẽ được đánh giá qua:
-Thái độ học tập, thể hiện qua số câu hỏi tối thiểu mà họ phải hỏi mentors
-Các bài tập đã hoàn thành
-Trả lời vấn đáp cho các mentors
Học viên không được có điểm liệt (0). Trượt một môn là trượt cả certificate.

 

8. Cộng đồng. Học viên và các mentors sẽ hình thành một cộng đồng công nghệ, giúp nhau giải các bài toán thực tế và chuẩn bị cho quan hệ đồng nghiệp sau này. Sinh viên có cơ hội tiếp xúc “nhà tuyển dụng” ngay từ ngày đầu đi học và trong suốt quá trình học.

 

9. Trải nghiệm. Học viên phải trải qua Xday off-line hàng tháng để xây dựng những mối quan hệ bền vững, bên cạnh những tương tác online hàng ngày.

 

10. Giá hợp lý. Học phí sẽ theo mức Việt nam. Học bổng được phân phối theo cách để khuyến khích ai cũng có thể có học bổng.

 

 

 

 

Tại hội nghị Chiến lược FPT mùa thu năm 2015, nhóm dự án xin 5 phút cuối phiên để chia sẻ về sự khác biệt trong việc học trên internet, thông qua 2 bức ảnh: Bức ảnh thứ nhất gồm 2 hình ảnh: IBM ký hợp đồng với FPT, Google ký hợp tác với Nguyễn Khánh Trình (một giáo viên cũ của FPT ra mở công ty mới CleverAd). Trong bức ảnh thứ hai, một bên là MC Lại Văn Sâm, và một bên là Vlogger: JVevermind

 

Những bức ảnh gợi ra một câu hỏi: Vì sao một mô hình kinh doanh trên internet như Google không hợp tác với một tập đoàn công nghệ có tên tuổi và bề dày kinh nghiệm như FPT, mà lại hợp tác với một đơn vị mới sáng lập bởi một người hoàn toàn mới như Nguyễn Khánh Trình? Vì sao video từ nhân vật được đào tạo bài bản về nghề MC, quay chỉn chu như MC Lại Văn Sâm chỉ thu hút vài chục nghìn lượt view, còn 1 nhân vật “dị” như JVevermind, với video quay bằng điện thoại, trang phục chủ yếu là áo ba lỗ, thực hiện ngay tại phòng ngủ, phòng khách trong nhà lại thu hút hàng triệu lượt view?

 

Câu trả lời là muốn thành công trong bối cảnh mới được thực hiện theo cách mới. Nếu muốn làm cái mới – phải làm khác đi, tin tưởng vào những người mới, có cách tiếp cận khác, mới mẻ hơn. Với giáo dục cũng vậy. Nếu FPT không tin vào cái mới, vẫn sử dụng công thức giáo dục cũ, sẽ hình thành nên format trường đại học truyền thống. Nếu muốn làm giáo dục kiểu mới trên nền tảng công nghệ mới, chúng ta cần đặt cược vào những công thức mới, con người mới. Từ đó, chúng ta có hy vọng làm được cái mới.

 

Ngày 14/9, FPT có văn bản chính thức duyệt thành lập trường. Dự án gấp rút thực hiện để đạt được những dấu mốc đầu tiên: Ngày 13/10, FUNiX khai trương, tuyển sinh được 2 sinh viên đầu tiên. (Hai sinh viên này đáng được tôn vinh vì sự dũng cảm khi đặt niềm tin rất sớm vào ngôi trường “trên mây”).

 

Ngày 20/11/2015, ngày Nhà giáo Việt Nam, FUNiX tổ chức lễ khai giảng khóa đầu tiên. Thật hạnh phúc vì đã có 50 sinh viên đăng ký. Lễ khai giảng có sự tham gia của đội ngũ mentor hùng hậu – đều là những lãnh đạo, chuyên gia có uy tín đến từ nhiều công ty lớn trong ngành CNTT như FPT, Tinh Vân, CMC… Các mentor bày tỏ tin tưởng về cách đi của FUNiX và cam kết nhận sinh viên FUNIX vào doanh nghiệp của mình.

 

Một cách tình cờ, cách vận hành của FUNiX đã đi đúng theo hướng đi mà GS Robert Muller đưa ra về một trường đại học kiểu mới trên Internet. Sau hơn 3 năm từ lễ khai giảng đầu tiên này, tới đầu 2019, FUNiX đã có những con số đáng kể: hơn 3000 sinh viên, và số mentor cũng nhiều không kém với gần 3000 mentor môn. Một điều impossible đã trở thành hiện thực.  

 

Tuy nhiên, trường đại học kiểu mới như FUNiX, thực chất đang vận hành không khác so với những nguyên tắc cốt lõi của giáo dục, đã được khẳng định qua thực tế lịch sử hàng nghìn năm của nhân loại.  

 

Thuật ngữ Mentoring là một khái niệm mới, nhưng cách dạy kiểu mentoring – hướng dẫn thì đã có lịch sử hàng nghìn năm. Những người thầy nổi tiếng trong lịch sử như Khổng tử, Aristotle đều giảng dạy theo cách này.  Tất cả những kiến thức là dựa trên thực tế, do thầy và trò trao đổi với nhau. Thầy chỉ là người hướng dẫn, không phải người cung cấp kiến thức. Các cuốn sách đều do học trò ghi chép lại từ những buổi học trên thực tế. Tri thức của nhân loại đều được ghi chép, truyền thụ theo cùng một cách như vậy.  

 

Đề cao năng lực tự học cũng vậy. Những nguyên tắc này đã được khẳng định là cách giáo dục đúng để phát triển cá nhân tốt nhất. Chữ học là gốc của giáo dục. Trong việc Học, thì kỹ năng Hỏi là quan trọng nhất. Từ đó, người học tự quyết định việc học của mình, chưa hiểu thì hỏi thầy. Thầy dạy từ nhu cầu trò muốn tìm hiểu kiến thức.

 

Bên cạnh đó, để tự học hiệu quả, quan trọng hơn hết là động lực học thực sự ở đằng sau. Duy trì được động lực học tập giúp việc học đạt được hiệu quả cao.   Bộ ba mentoring – tự học – duy trì động lực là công thức quen thuộc để học tập hiệu quả, được chứng minh bằng thực tế lịch sử học tập của cả nhân loại. Sự khác biệt lớn nhất của công thức này ở thời điểm hiện tại, và ở FUNiX chỉ là: công nghệ cho phép chúng ta thực hiện những điều này trên quy mô rộng hơn rất nhiều, và chỉ với chi phí thấp.

Trường đại học kiểu mới, trường học trên internet như FUNiX ra đời, có thể là may mắn, cũng có thể là sự hội tụ đúng thời điểm. Khi đối chiếu phương pháp học của FUNiX với những nguyên tắc giáo dục của thời đại 4.0 dưới đây, format giáo dục mà FUNiX đang theo đuổi lại hoàn toàn đúng với xu thế của thời đại.  

 

Có thể nói, FUNiX là một platform của nền kinh tế chia sẻ – đặc trưng của thời đại 4.0: FUNiX đang kết nối nhiều nguồn tri thức sẵn có tới những người có nhu cầu được học hỏi. Đội ngũ mentor – là những chuyên gia đang làm việc thực tế – khi tham gia mentoring đồng thời thỏa mãn được cả 2 tiêu chí: vừa đóng góp cho cộng đồng, chia sẻ, hướng dẫn cho đàn em, vừa có thêm thu nhập cho mình. Nhờ có công nghệ, nhờ internet và những ứng dụng kết nối như skype, facebook, messenger…, họ đã kết nối dễ dàng hơn và chia sẻ được kiến thức của mình cho những người có nhu cầu được học.  

 

Có thể coi FUNiX way, hay cách học kiểu FUNiX là một trong những thử nghiệm đầu tiên của phương pháp giáo dục của tương lai. Có thể còn rất nhiều những vấn đề chưa có lời giải… nhưng đã và đang là một hướng đi đúng, được các nhà giáo dục trên toàn thế giới cực kỳ quan tâm tại nhiều hội nghị khoa học về giáo dục thế giới.

(Sự khác biệt của Giáo dục trong CMCN lần thứ nhất và lần thứ tư - Diễn đàn kinh tế thế giới)

Dù triết lý là gì, giáo dục đại học vẫn cần phải giải quyết nhiệm vụ chính yếu nhất: người làm được việc và sẵn sàng cho những thay đổi trong tương lai.  

 

Vậy FUNiX way là gì?  

 

Với FUNiX way, giờ thì bất cứ một học sinh nào có khả năng đến quán Net, sẽ có cơ hội theo học những chương trình tiên tiến nhất trên thế giới về CNTT qua FUNiX, nhờ có những người như giáo sư Muller. Nhờ MOOC (Massive Open Online Course). Tất nhiên là sẽ không dễ như thế. Rào cản thứ nhất là ngôn ngữ. Nhưng nếu đã xem phim Holliwood được, sao không xem bài giảng tiếng Anh được. Chỉ cần thêm phụ đề hay thuyết minh! Nhưng học không phải như xem phim, chắc cũng phải có lúc bí. Vậy thì hỏi. Ở FUNiX học sinh tranh đua để dành danh hiệu, ai là người hỏi nhiều nhất, ai là người hỏi chất nhất, chứ không phải ai là người trả lời đúng nhất.  

 

Rồi háo hức ban đầu qua đi. Trăm ngàn lý do cám dỗ làm ta ngại học. FUNiX là trường đại học có lẽ hiếm hoi có chức danh Dỗ Viên mà không phải là Giảng Viên, có hẳn Trung tâm Dỗ học sinh học. Chúng tôi gọi các bạn làm việc ở đây là Hannah theo tên mà các lính Mỹ gọi nữ phát thanh viên nổi tiếng của Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Trịnh Thị Ngọ – Hannah Hanoi. Chân thành được tri ân bà và các đồng đội của mình. Các Hannah trao đổi với từng sinh viên, nắm được tâm tư nguyện vọng, đưa ra những phương án, để sinh viên tiếp tục con đường học tập. Bất cứ lúc nào khó khăn, các em cũng thấy nhà trường luôn ở bên cạnh.  

 

Các mối quan hệ với đàn anh làm ta nhanh chóng trưởng thành trong nghề. Thường thi chúng ta đi học 4-5 năm, tốt nghiệp xong mới đi làm. Vào chân rót nước pha trà, leo lên nhanh thì cũng 5-6 năm thì “vua mới biết mặt, chúa mới biết tên”.  Ở FUNiX sinh viên ngay ngày đầu đã có thể “chất vấn” lãnh đạo các công ty công nghệ hàng đầu ở Việt Nam. “Learn with the mentors” là khẩu quyết của sinh viên. Mentors là ai, họ chính là những lãnh đạo, chuyên gia các cấp đang làm trong ngành công nghiệp CNTT ở Việt nam và thế giới. Họ sẵn lòng dành thời gian để trả lời các câu hỏi của sinh viên. Cách đây 2 tuần 1 bạn sinh viên sau khi trao đổi xong với tôi, mới thừa nhận bạn ấy đang làm ở văn phòng FPT bên Singapore, mà chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện có thể chat 1-1 với tôi như vậy nếu không có FUNiX.

Vậy thì điều kiện gì thì được đi học FUNiX. Chẳng cần gì, chỉ cần bạn quyết tâm tự học. Và tất nhiên là một cái laptop nối Internet. Nếu không có laptop cũng không sao. Có lần chúng tôi nhận được một cuộc điện thoại của sinh viên xin tạm dừng học mấy hôm. Hóa ra là chỗ bạn ấy mưa bị lụt, bạn ấy không ra quán Net để học được. Bạn ấy làm giúp việc cho một gia đình và chỉ tranh thủ đi học được buổi tối. Hóa ra 45000 quán Net ở Việt Nam cũng có thể trở thành điểm trường Đại học.  

 

Thực ra thì bạn ấy cũng không cần xin phép nghỉ vì học thế nào, học nhanh hay chậm đều do sinh viên quyết định. (Tất nhiên là nếu bạn ấy chán nản, sẽ có Hannah xinh đẹp gọi điện dỗ). Có bạn hỏi bao giờ thì thi, bao giờ thì tốt nghiệp. Chúng tôi chỉ có thể đưa ra ước tính. Còn bạn thích thi ngay ngày mai cũng được. Bạn học nhanh thì tốt nghiệp sớm. Bạn bắt đầu sớm thì có thể hoàn thành chương trình đại học ngay khi còn đang học phổ thông.  

 

Với hơn 3000 học sinh, hàng ngàn mentors và hàng trăm ngàn cuộc trò chuyện đang diễn ra hàng ngày trên FUNiX, rất nhiều những giấc mơ đang trở thành hiện thực.  

 

Như 1 kỹ sư hóa dầu theo yêu cầu của bố mẹ, giờ đi làm, chỉ cần sau 3 tháng học, đã hoàn thành ước mơ từ thời niên thiếu, bỏ việc cũ để trở thành lập trình viên.  

 

Như 1 kế toán quèn ở huyện miền núi xa xôi, chỉ sau 6 tháng đã hoàn thành giấc mơ được vào làm việc tại FPT, gặp được thần tượng Hoàng Nam Tiến.

 

Hay như một lơ xe ở Thanh Hóa, ngoài 40 tuổi mới xin tiền vợ, đi học công nghệ thông tin tâm sự “em không học tiếp được, nhưng em cám ơn trường đã cho em hoàn thành giấc mơ mua 1 cái laptop và tự tay viết nên những dòng code đầu tiên”.  

 

Rất nhiều giấc mơ, ở ngay thành thị hay vùng cao xa xôi, ở nhiều con người, độ tuổi khác nhau… đang trở thành hiện thực với triết lý đó.

Khi là đơn vị tiên phong trong cách giáo dục mới, đương nhiên, FUNiX sẽ vấp phải những thách thức và cả nghi ngờ, đặc biệt là trong hệ thống giáo dục Việt Nam.

 

Thách thức lớn nhất có lẽ là Chưa ai tin. Làm sao để thuyết phục được phụ huynh, người học theo đuổi con đường tự học trực tuyến, khi mà trong xã hội hiện đại, tốt nghiệp trường top, có mấy bằng đại học “vẫn còn chả ăn ai” như nghi ngại của không ít người?

 

Chúng ta không cố gắng để thuyết phục những người chưa tin tưởng. Cách làm mới, xu thế mới sẽ cần nhiều thời gian để chứng minh. Vì tự học và học tập suốt đời chính xác sẽ là yêu cầu học tập lớn nhất trong thời đại này, và chỉ có đại học trực tuyến mới giải quyết hiệu quả được yêu cầu đó. FUNiX đang kiên trì theo con đường đó. Nếu bạn tin vào cách làm này, bạn sẽ tự tin quyết định chọn lựa con đường này. Nếu bạn chưa tin, hãy dành thêm thời gian cho đến lúc bạn nhìn được thành quả.

 

Vậy còn giá trị bằng cấp? Một trường học trực tuyến – cấp bằng từ xa có đủ uy tín để chứng nhận được các giá trị học tập cho người tốt nghiệp nó, nhất là khi tình trạng bằng giả, bằng thật, học vì bằng… đang là vấn nạn của xã hội?

 

 

 

Thực chất, mô hình học nhanh – sớm ra trường như FUNiX không hề mâu thuẫn với việc học tập vì bằng cấp. Nó thậm chí giải quyết được các vấn đề khác nhau của giáo dục theo 1 cách linh hoạt hơn: Bạn không cần phải lựa chọn giữa bằng cấp và đi làm. Bạn có thể đi làm ngay – ngừng học nếu muốn. Bạn có thể đi làm – và vẫn tiếp tục học lấy bằng, nếu cần. Bạn có có thể rút ngắn tối đa thời gian học để lấy bằng – không có rào cản nào về thời gian, tất cả hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của bạn.  

 

Nếu áp dụng được quan điểm và cách làm giáo dục này trên diện rộng, nhiều bài toán giáo dục có thể được giải quyết trên nền tảng trực tuyến: Nhiều mô hình học đại học hơn, Nhiều cách công nhận năng lực một cách có uy tín hơn là 1 tấm bằng đại học. Nó sẽ giải được bài toán nhân lực trên diện rộng, không chỉ trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Nó mở ra cơ hội học và làm nhanh cho tất cả mọi người.

Và từ một góc độ khác, công nghệ giáo dục chắc chắn đang là xu hướng tất yếu của thời đại. Hiện nay ở Mỹ, 60% sinh viên đại học đang học ít nhất một nội dung học tập qua hình thức trực tuyến. Gần một phần ba sinh viên đang học trực tuyến lấy bằng. Đặc biệt trong việc đào tạo thạc sĩ – với đối tượng chủ yếu là người đi làm.

 

Trong tương lai, tỉ lệ học trực tuyến lấy bằng đại học sẽ còn lớn hơn nữa. Và chính nhờ các chứng chỉ trực tuyến tích hợp, bằng cấp đại học tương lai cũng sẽ thay đổi theo.

 

Anant Agarwal, CEO của edX dự báo: Bằng cấp đại học trong tương lai sẽ được cá nhân hóa dựa trên nhu cầu của từng người. “Thay vì dành bốn năm theo đuổi bằng đại học giống nhau, sinh viên có thể tự tạo bằng cấp phù hợp với thế mạnh riêng” Không cần phải là bằng của Harvard, MIT hay Penn… bằng đại học sẽ là dạng bằng cấp tích hợp. Tương tự với việc bạn đang tự tay xây dựng một lâu đài Lego theo từng khối, thay vì mua một mô hình có sẵn: Bạn chọn những viên gạch mình cần để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự nghiệp.  Và trường học kiểu mới trên nền tảng số cho phép bạn thực hiện điều đó.

 

Học trực tuyến không còn xa lạ trên thế giới nữa, và làn sóng ấy đang lan tỏa.

Cách đào tạo kiểu FUNiX giống như ta chạy trên một con đường dài. Nhà trường, Hannah, các mentors như những người hỗ trợ, cổ vũ, chỉ đường hai bên. Nhưng người chạy phải là ta. Với một thái độ đúng đắn, không bỏ cuộc, ta có thể vươn tới những kết quả mà bản thân có thể ngạc nhiên, hệt như ta thấy vui sướng, ôi một cơ thể lẻo khẻo thế này mà cũng kết thúc được marathon sao? Thật là kỳ diệu.  

 

FUNiX way có thể là một gợi ý tốt để nhanh chóng giúp nền giáo dục nước nhà giải quyết các vấn đề về đào tạo trong thời đại Internet.  Ví dụ, tại Diễn đàn Du lịch Việt nam T12/2018 do VNE tổ chức, các tổ chức du lịch chia sẻ vấn đề của ngành du lịch hiện nay: Thiếu trầm trọng nhân lực. Gần 90% nhân lực trong ngành là chưa được đào tạo, mặc dù tiềm năng phát triển của ngành là cực kỳ to lớn.  

 

Làm những điều “impossible – phi thường” nhiều khi không đòi hỏi bạn phải nỗ lực gì ghê gớm lắm, chỉ cần ngoảnh đầu nhìn sang hướng khác. Hệt như ta đang đi trên đường lạnh lẽo ẩm ướt, chợt nhìn sang bên cạnh, một cây đào nở hoa đỏ thắm, và hiểu rằng mùa xuân đang đến.   Một nền đại học chất lượng Mỹ, giá Việt Nam đang hiện hữu!